
JBL L100 được JBL giới thiệu lần đầu tiên tại sự kiện CES 1970 tại Chicago, nó là phiên bản loa home của dòng loa studio monitor 4310 cùng các tái bản nổi tiếng 4311, 4312. Và từ đó cho đến nay, sau suốt gần 50 năm tồn tại, đây là cặp loa bán chạy nhất mọi thời đại của JBL, trở thành sản phẩm âm thanh thành công nhất từ trước tới nay của thương hiệu loa lừng danh này. Sau những tái bản đã rất thành công như L100A và L100 Century, JBL đã tiếp tục tung ra thêm một thế hệ nữa nhằm đáp lại sức mua rất tốt từ thị trường.

Sản phẩm được phụ trách thiết kế bởi Chris Hagen – nhà thiết kế lâu năm của JBL. Ở L100 Classic, Chris đã thay đổi nhiều yếu tố quan trọng bao gồm củ loa và mạch phân tầng nhằm đảm bảo L100 Classic đem tới cho người chơi audio một trải nghiệm khác hẳn và hấp dẫn hơn , đôi loa này là thế hệ tiếp theo của những người tiền nhiệm lẫy lừng trong quá khứ như 4310 monitor, 4311 monitor, 4312 monitor, L100, L100A, L100 Century, L100 Century 2, L100 Century Gold… Nhằm giữ lại những giá trị nguyên bản của huyền thoại này, JBL gần như đã không thay đổi về ngoại hình cả sản phẩm.
JBL L100 CENTURY SPECS
Frequency Response: | Unknown |
Sensitivity: | 91dB (1W input, measured at 1m) |
Impedance: | 8Ω |
Power Capacity: | 50W (continuous program) |
High Frequency Driver: | LE25 36mm (1.4″) Paper Diaphragm |
Medium Frequency Driver: | LE5-2 130mm (5″) Paper Diaphragm |
Low Frequency Driver: | 123A-1 300m (12″) Pressed Paper Diaphragm |
Crossover Frequencies: | 1,500Hz and 6,000Hz |
Enclosure Type: | Bass Reflex |
Enclosure Dimensions (HxWxD): | 600x360x350mm (23.5×14.5×13.75″) |
Weight: | 24kg (each speaker) |
Production Year: | 1974 |
Price When Launched: | £235 for a pair |
Equivalent Present Day Price: | £2,560 for a pair |
Current UK Price: | £300 to £900 for a pair |
Vào đúng thời điểm JBL 4310 được chấp nhận rộng rãi, JBL đã trải qua quá trình chuyển quyền sở hữu từ Bill Thomas sang Tập đoàn Jervis do Sidney Harman kiểm soát. Một trong những thay đổi nhân sự đầu tiên là việc bổ nhiệm Irving Stern làm người đứng đầu nỗ lực tiếp thị của JBL. Stern ngay lập tức nhận thấy sự thành công của Studio Monitor là cơ hội vàng trong lĩnh vực sản phẩm tiêu dùng. Ông cảm thấy rằng các hệ thống tương tự, được tái sinh một cách thích hợp trong trang phục của người tiêu dùng, sẽ thu được lợi ích từ danh tiếng và dấu ấn của những người anh em họ chuyên nghiệp của chúng. Khái niệm này không được mọi người trong công ty chấp nhận. Nhiều người cảm thấy rằng các phiên bản dành cho người tiêu dùng sẽ có xu hướng làm loãng bản sắc chuyên nghiệp riêng biệt của màn hình và có thể làm suy yếu cảm giác độc quyền đặc biệt mà người dùng thương mại yêu thích. Sau nhiều cuộc tranh luận, người ta đã quyết định cấu hình lại 4310 để ra mắt lần đầu tiên trong bộ phận người tiêu dùng với tên gọi L100.

Một số đơn giản hóa đã được thực hiện trong mô hình mới. Mảng đầu dò vẫn giữ nguyên, nhưng phần nâng lên của vách ngăn phía trước cũng như bộ điều khiển bộ suy giảm mạng phân chia đã bị loại bỏ. Khi cân nhắc về sản phẩm mới tại văn phòng thiết kế Berkeley của mình, Arnold Wolf đã tự hỏi có thể làm gì để đầu tư một chiếc kệ sách đơn giản có bản sắc riêng. Wolf nói: “Vấn đề với thiết kế giá sách là, trong hầu hết các không gian gia đình, yếu tố hình ảnh hiệu quả duy nhất là lưới tản nhiệt phía trước”. “Một tấm vải căng, dù có hấp dẫn đến đâu, cũng không thể hiện được điều gì đặc biệt giữa loa này hay loa khác.” Điều anh ấy muốn tìm là một cách nào đó để truyền đạt tính chiều sâu cho bề mặt phẳng của lưới tản nhiệt. Điều này không chỉ tăng thêm sự thú vị về mặt hình ảnh và bản sắc độc đáo mà ở một mức độ nào đó, nó còn gợi ý tính chắc chắn ba chiều của hình ảnh âm thanh nổi.

Nhiều khả năng khác nhau đã được khám phá. Một hướng đi đầy hứa hẹn là sử dụng vải lưới đặc biệt chứa tỷ lệ sợi Dacron TM cao. Chất liệu này đã được sử dụng trong quần “ép vĩnh viễn”, trong đó quá trình xử lý nhiệt có kiểm soát tạo ra nếp nhăn sắc nét vẫn còn nguyên vẹn qua lần sử dụng tiếp theo và thậm chí cả khi giặt. Vấn đề trong ứng dụng lưới tản nhiệt là sợi dệt phải lỏng hơn nhiều để có thể trong suốt về mặt âm thanh. Mật độ giảm khiến việc dập nổi hoa văn nổi vĩnh viễn trên vật liệu trở nên khó khăn hơn nhiều và cũng có thể cần các bộ phận hỗ trợ trung gian ở mặt sau của lưới tản nhiệt. Một cách khác phải được tìm ra.

Wolf đã thấy việc sử dụng nhựa xốp làm lớp phủ cho micro – làm bộ lọc hơi thở trong phòng thu hoặc làm tấm chắn gió trong các ứng dụng ngoài trời. Ông lý giải rằng, nếu nhựa đủ thoáng để truyền âm thanh ở mức áp suất âm thanh rất thấp gặp phải khi sử dụng micrô thì chắc chắn nó sẽ đủ trong suốt cho lưới loa. Cuộc điều tra đã chứng minh điều này là đúng. Bọt có lỗ rỗng hoặc dạng lưới đã được thử nghiệm tốt hơn hầu hết các loại vải lưới thông thường. Wolf đã tuyên bố rằng, mặc dù anh ấy không thể hoàn toàn chắc chắn về điều này, nhưng có vẻ như L100 là sản phẩm đầu tiên sử dụng bọt định hình làm vật liệu lưới tản nhiệt cho loa.

Các phương pháp tạo đường viền và tạo hình bọt khá phức tạp, ngay cả vào thời điểm đó, và một mẫu bánh quế sâu nổi bật đã nhanh chóng được phát minh ra để phù hợp với các phương pháp sản xuất hiện có. Câu hỏi về màu sắc trở thành trở ngại tiếp theo. Các lựa chọn vật liệu có màu sắc đồng bộ đều quá buồn tẻ và yếu ớt để có thể chấp nhận được. Nhuộm không hoạt động tốt. Cuối cùng, một người nào đó trong Bộ phận Sản xuất của JBL (có thể là Tony Pacheco, Giám đốc Sản xuất) đã cố gắng thực hiện một điều hiển nhiên: sơn nó. Một công thức sơn tương thích đã được tìm thấy và với độ nhớt được kiểm soát cẩn thận, các lỗ hở trên bọt không được lấp đầy trong quá trình phun. Kết quả đáng mừng này khiến việc cung cấp cho L100 ba tùy chọn màu lưới tản nhiệt trở nên khả thi về mặt kinh tế.
Khi chuẩn bị kế hoạch tiếp thị cho việc giới thiệu sản phẩm, Irv Stern đã nghĩ ra cái tên rất hay là “The Century” để gắn liền với doanh số bán hàng L100 của nó. Sau khi được giới thiệu tại Triển lãm Điện tử Tiêu dùng mùa hè năm 1970 ở Chicago, L100 không chỉ trở thành sản phẩm thành công nhất của JBL cho đến thời điểm đó mà còn là hệ thống loa bán chạy nhất thập kỷ.

Leave a Reply