Việc nghe thẩm định – nghe để đánh giá chất lượng thiết bị audio bằng cách lắng nghe và phân tích – hoàn toàn khác với nghe thưởng thức.
Mục đích của nghe thẩm định không phải dành cho những trải nghiệm về âm nhạc mà để quyết định xem hệ thống hoặc thiết bị audio đó có âm thanh hay hay dở và lý do tại sao. Khi muốn kiểm chứng những gid đã nghe, người nghe nên xác định các giá trị cần được đánh giá với việc tái tạo âm thanh. Người nghe có thể sử dụng những thông tin đó để đánh giá và lựa chọn thiết bị, phối ghép nên hệ thống hoàn thiện.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGHE THẦM ĐỊNH
Việc đánh giá dựa trên đôi tai là điều thiết yếu, bởi các thiết bị đo lường chưa đủ khả năng mô tả chất lượng trình diễn âm nhạc của các sản phẩm audio. Cơ chế nghe của con người nhạy cảm và phức tạp hơn trăm ngàn lần thiết bị kiểm định tiên tiến nhất. Dù thông số kỹ thuật là cơ sở đáng tin cậy để lựa chọn thiết bị, nhưng đôi tai mới là nhân tố phán quyết cuối cùng. Hơn nữa, sự khác biệt trong khả năng biểu đạt cảm xúc âm nhạc của mỗi thiết bị chỉ có thể cảm nhận theo cách chủ quan.
Nhiều người khi mới tiếp xúc với thiết bị tái tạo âm nhạc chất luộng cao thường đặt câu hỏi: “Dựa vào đâu để đánh giá thiết bị audio?” Đa phần tin rằng: chỉ cần dựa vào đo lường kỹ thuật là có thể đánh giá các yếu tố có liên quan đến khả năng trình diễn của sản phẩm. Nhưng thực tế không phải vậy. Nếu thiết bị đo lường làm được điều đó thì tạo sao vẫn cần những buổi nghe thẩm định nặng tính chủ quan do đôi tai người nghe quyết định?
Hơn nữa, thiết bị đo lường, kiểm tra và so sánh sản phẩm audio có xu hướng lượng hóa các yếu tố theo hai chiều: độ méo của sản phẩm, tần số đáp ứng, độ can nhiễu và một số yếu tố khác. Tuy nhiên, nghe nhạc là trải nhiệm ba chiều mà độ phức tạp của nó cao gấp nhiều lần bất kỳ tập hợp số nào (kết quả quá trình lượng hóa). Làm sao người nghe có thể biến đổi các biểu thức toán học . Vật lý ra quyết định nên chọn ampli nào? Và liệu những biểu thức phức tạp ấy có lý giải được tại sao bản nhạc đó lại có thể khiến người nghe rung động đến mức gai người!
Dẫu có sử dụng bao nhiêu thiết bị đo lường tối tân, thì cũng không thể đo được mức độ biểu nhạc âm nhạc của các thiết bị audio. Nếu phải lựa chọn một trong hai đầu dọc CD làm người chơi nhạc trong 5 năm tới, tôi thà dùng 10 phút để nghe từng thiết bị trong phòng nghe còn hơn dùng 10 giờ với mỗi thiết bị trong phòng kiểm định. Đến thời điểm, các thiết bị kiểm định vẫn chỉ là công cụ thô sơ, thua xa bộ lão người.
Hầu hết người nghe có thể chỉ ra sự khác biệt giữa âm thanh hay âm thanh dở. Nhưng việc khám phá sản phẩm đó đạt yêu cầu về nhạc tính không, khả năng nhận biết và mô tả những điển khác biệt (dù nhỏ nhất) trong âm thanh.. đều là những kỹ năng cần rèn luyện.giống như các kỹ năng khác, khả năng nghe thẩm định sẽ được nâng cao thông qua thực hành: nghe càng nhiều, càng có thể cảm nhận được những điểm khác biệt nhỏ trong âm thanh do hệ thống tái tạo để từ đó mô tả sự khác biệt giữa trong âm thống của mỗi loại thiết bị và lý giải nguyên do.
PHẨM CHẤT CỦA AUDIOPHILE
Âm thanh hay đồng nghĩa với thỏa mãn về cảm xúc âm nhạc được tái tạo bởi hệ thống audio. Nếu ai đó mời bạn đến nhà thưởng thức hệ thống hi-fi, bạn có thể nhận thấy anh ta là người yêu nhạc hay người mê máy (chỉ tập chung vào âm thanh nhiều hơn là âm nhạc). Nếu anh ta bật nhạc thật to, liên tục đổi đĩa và các trach nhạc rồi sau 30 giây lại vặn nhỏ để dò nhận xét nhận định của bạn, chắc hẳn đây không thể là người yêu nhạc. Ở trường hợp khác, nếu anh ta hỏi bạn thích nghe loại nhạc gì và chọn chương trình để chơi với âm lượng vừa phải rồi ngồi cùng bạn nghe trong vài chục phút, rất có thể người đó đã có những phẩm chất mà một audiophile cần có hoặc đơn giản anh ta là người rất quan tâm đến âm nhạc. Trường hợp đầu tiên, người đó muốn gây ấn tượng với bạn bằng âm thanh. Trường hợp thứ hai, người đó muốn gây ấn tượng bằng hệ thống của họ, nhưng thông qua âm nhạc chứ không phải âm thanh khiến căn phòng rung động. Đó là điểm khác biệt căn bản giữa người chơi máy và người yêu nhạc.
Ampli đèn điện tử có tên gọi “đèn single-end ba cực” là minh chứng tiêu biểu cho sự hạn chế của các công cụ đo lường trên khía cạnh hiệu quả về tái tạo âm nhạc của các thiết bị audio. Tất cả ampli đèn single-end ba cực đều cho kết quả đo tệ đến mức thảm hại với độ méo cao, công suất cực thấp (hầu hết dưới 10W/kênh) và chỉ có thể chơi với một số loa nhất định. Song chính loại ampli này lại cho âm thanh truyền cảm, mê hoặc không thể chối cãi.
Có nhiều người chỉ mới nghe nhạc được một lúc đã bình phẩm ưu/nhược của hệ thống. Rất có thể họ bị tác động bởi những âm thanh nhào nhoáng từ các show room hay ở nhà một người chơi máy nào đó. Khi bạn bắt đầu nghe nhạc ở nhà người khác hoặc cửa hàng audio, không nhất thiết phải bộc lộ quan điểm của mình về âm thanh. Hãy ngồi tĩnh nặng và tập trung nghe để âm nhạc (chứ không phải âm thanh) cho bạn thấy hệ thống đó hay đến mức nào.
Khi nghe cùng với một nhóm, bạn cũng không nên bị lung lay bởi ý kiến của những người xunh quanh. Tuy nhiên, nếu họ là những người nghe giàu kỹ năng, bạn nên cố gắng hiểu những gì họ đang bàn luận. Lắng nghe những mô tả, so sánh ý kiến của họ với cảm nhận của bạn. Song cũng không nên giữ khư khư những nhận định của người khác trong đầu. Ví như trong trường hợp bạn không cảm nhận được sự khác biệt giữa hai sợi dây tín hiệu, đừng ngại nói ra điều đó. Hơn nữa, bạn cũng lên thành thực bày tỏ ý kiến khi được hỏi về hệ thống nào đó mà mình được nghe. Nếu âm thanh dở, hãy cho họ biết bạn thấy nó dở.
Bất kỳ thiết bị audio nào cũng ảnh hưởng đến tín hiệu âm thanh đi qua. Một số sản phẩm bị sai âm khi thêm thắt những đặc tính không đáng có ví như tiếng treble sạn âm bass lùng bùng. Một số thiết bị khác lại khiến cho âm thanh bị hụt, chẳng hạn một cặp loa nhỏ không thể tái tạo những tần số cực thấp. Nếu nột số âm thanh nào đó của bản nhạc không được tái tạo chọn vẹn, tiền thức từ não bộ sẽ cho bạn biết âm thanh đó thiếu những yếu tố nào gì? Song bạn vẫn có thể thưởng thức âm nhạc một cách thỏa mái. Tuy nhiên, nếu hệ thống tái tạo lại thêm một số đặc tính cho âm thanh, bạn sẽ luôn bị ám ảnh rằng những gì bạn đang nghe là sản phẩm tái tạo, không phải “đồ thật”
Một audiophile có kiến thức sâu rộng về âm nhạc và có kinh nghiệm về việc chúng được tái tạo như thế nào mới hiểu được tầm quan trọng của sự khác biệt (dù nhỏ nhất) trong việc tái tạo âm thanh của bộ dàn. Những cải thiện nhỏ có thể mang lại khác biệt khác biệt lớn trong màn hình diễn của hệ thống.
BẪY” KHI NGHE THẨM ĐỊNH
Có một số điểm đáng quan ngại khi phát triển kỹ năng nghe thẩm định, đó là phân biệt giữa nghe thẩm định và nghe thưởng thức. Một khi đã tập trung toàn bộ tinh thần và dán định chất lượng âm thanh, bạn có thể dễ dàng quên mất lý do đã đưa mình đến thế giới của audio là âm nhạc, Điều này cũng có thể khiến bạn có thói quen không mấy dễ chịu, đó là hễ nghe nhạc là phải tập trung để đưa ra đánh giá xem đúngsai về âm thanh. Trong khi đó, thiết bị hi-and thường có màn trình diễn tốt đến mức người không cảm thấy sự hiện diện của các thiết bị phần cứng. Khi nghe nhạc để thưởng thức, người nghe thường không để ý đến thiết bị và quên việc nghe đánh giá. Chỉ nên chuyển sang trạng thái nghe thẩm định khi người nghe cần quyết định lựa chọn sản phẩm hoặc luyện nghe để trở thành người nghe tinh. Một audiophile có bản lĩnh thường xuyên xác định được ranh giới giữa nghe thẩm định và nghe thưởng thức và biết khi nào nên vượt qua ranh giới đó.
Khi chúng ta cho tín hiệu đi qua thiết bị audio, thì kết quả đầu ra không bao giờ bằng tín hiệu gốc. Do đó, người chơi nên tối giản các linh kiện, thiết bị trong hệ thống, loại bỏ nhưng thiết bị điện tử không thực sự cần thiết giữa người nghe và âm nhạc.
Một trong những khó khăn lớn nhất của nghe thẩm định là tìm ra ngôn từ phù hợp để mô tả những cảm nhận và trải nghiệm trong quá trình nghe. Vốn từ mô tả những phẩm chất âm thanh không chỉ cần thiết trong việc truyền đạt lại những gì nghe được cho người khác mà còn giúp người chơi tự ghi nhận và thấu hiểu với những trải nghiệm của bản thân. Bài viết này đề cập đến những khái niệm và vốn từ vựng dùng để mô tả phẩm chất âm thanh của thiết bị audio.
Trước khi mô tả từng khái niệm cụ thể, chúng tôi muốn độc giả nắm được hệ thống thuật ngữ dùng để mô tả dải tần âm thanh. Dải tần số âm thanh mà tai người nghe thấy trải dài trên 10 quãng tám bắt đầu từ 16Hz đến 20kHz, có thể chia thành một số vùng cụ thể theo bảng dưới đây.
SỰ CÂN BẰNG VỀ GIỌNG (TONAL BALANCE)
Khía cạnh đầu tiên trong màn trình diễn âm nhạc của mỗi thiết bị mà người nghe cầu lưu tâm là sự cân bằng về chất giọng , sự hài hòa cân bằng giữa âm bass, mid hay treble của thiết bị đạt đến mức nào. Nếu âm thanh có xu hướng nhiều trele, có thể gọi là thiết bị thiên sáng. Nếu âm bass lấn át các dải khác, thiết bị đó được coi như có chất tiếng nặng. Ngược lại, nếu có quá ít âm bass, có thể coi thiết bị đó mỏng tiếng, nhẹ bass hoặc thiên cao. Sự cân bằng về giọng của thiết bị audio đặc biệt có ý nghĩa, thường ảnh hưởng lớn đến âm điệu của nó.
ÂM HÌNH (OVERALL PERSPECTIVE)
Thuật ngữ âm hình mô tả khoảng cách hiện hữu giữa người nghe và âm nhạc. Âm hình chủ yếu thể hiện khoảng cách giữa người trình diễn với microphone. Tuy nhiên, nó cũng chịu ảnh hưởng của các thiết bị tái tạo trong hệ thống. Một số thiết bị khiến màn trình diễn như vậy được đẩy lên phía trước, hướng đến người nghe. Trong khi đó, một số thiết bị khác lại có xu hướng kéo lùi sân khấu lại phía sau. Thiết bị có âm hình tiến thể hiện âm nhạc ở phía trước cặp loa, sản phẩm có âm hình lùi thể hiện âm nhạc hơi lùi về phía sau loa.
Một số thuật ngữ khác cũng được sử dụng để mô tả âm hình. Ví như từ khô (dry) thường dùng để mô tả âm thanh thiếu độ vang và không gian, nhưng cũng có thể hiểu được nếu ám chỉ âm hình hơi tiến. Một số cụm từ khác có thể dùng để mô tả âm hình tiến như: trực tiếp (immediate), sắc tiếng (incisive), tấn công (aggressive), chói lọi (vivid)… Những thuật ngữ đi kèm với âm hình lùi thường được dùng như: dịu (easygoing), nhẹ nhàng (gentle)…
TIẾNG TREBLE
Tiếng treble hay là yếu tố không thể thiếu trong hệ thống tái tạo âm nhạc chất lượng cao. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều sản phẩm audio xuất sắc lại không thể thỏa mãn yêu cầu về nhạc tính bởi sự yếu kém trong phần trình diễn tiếng trele.
Những đặc tính của tiếng treble mà người chơi audio muốn tránh được thể bhiện qua những thuật ngữ như: sáng (tươi), rối, tiến, tấn công, cứng giòn, sắc, khô, nhợt, chuột, chói, đanh, rít, sạn…
Thiết bị audio có tiếng treble với những đặc điểm trên thường khiến người nghe cảm thấy không thoải mái trong quá trình nghe nhạc. Khi đó, người nghe có cảm giác như tiếng trle không hòa nhập với màn hòa âm tổng thể của bản nhạc, mà tách rời “một mình một điệu”. Trong trường hợp này, người nghe sẽ nhận biết tiếng treble như một thực thể riêng biệt mà không còn là yếu tố cấu thành nên âm nhạc. Một số nguyên nhân chính gây ra vấn đề trên như: chất lượng của loa tweeter (loa treble) trong cặp loa, phòng nghe bị dội âm (cao) quá nhiều, các thiết bị nguồn digital (thường là đầu đọc CD), pre-ampli, ampli công suất, dây dẫn và nguồn điện bẩn, nhiễu.
Nhũng thuật ngữ được liệt kê sau đây thường dùng để mô tả tiếng trele hay như: mượt, ngọt, êm, mịn, nhẹ, dịu… Khi tiếng trele trở nên quá mượt, người ta thường sử dụng từ ướt át hay ủy mị để chỉ âm thanh của thiết bị. Có thể hiểu, những thuật ngữ như “mượt, ngọt và mịn” được sử dụng như sự khen tặng. Ngược lại, “ướt át, ủy mị” cho ta thấy tiếng treble đã vượt quá giới hạn cân bằng và thiết bị đã trở nên sai âm.
Những thiết bị có chất tiếng nhạt, đơn điệu, chậm, dày, hẹp và thiếu chi tiết thường có tiếng treble vượt quá mức mượt mà cần thiết. Một số thiết bị khác lại khiến màn trình diễn âm nhạc thiếu sức sống, khôg gian, độ mở, sự dàn trải nếu tiếng treble quá mềm. khi đó, âm nhạc chỉ được tái tạo trong phạm vi hẹp, thiếu độ mở và độ lớn.
Không gian của quãng tám cao nhất thể hiện sự (gần như) không có giới hạn trong độ mở của tiếng treble, khiến người nghe như thấy được lớp không khí bao xung quanh mỗi âm thanh nghe thấy từ nhạc cụ và giọng hát. Những hệ thống không tái tạo được quãng tám cao nhất thường không thể hiện được độ chi tiết của không gian âm nhạc.
Tiếng treble hay nhất giống với âm nhạc thực nhất. Để đạt tới điều này, tiếng treble phải giàu năng lượng. Vì như tiếng cymbal thật nghe rất mãnh mẽ mà không sạn hay bị khô. Âm thanh tái tạo chỉ được gọi là thành công khi loại bỏ những âm thanh mà trong nhạc sống không có. Hơn thế, tiếng treble phải là yếu tố cấu thành và hài hòa với tổng thể âm nhạc chứ không phải là thứ tiếng ồn ở dải tần cao khiến người nghe khó chịu.
Trung âm.
Đây là dải âm có màn trình diễn chính và quan trọng với thiết bị audio nói riêng và hệ thống hi-fi nói chung, ngõ hầu giúp độc giả nâng cao khả năng cảm nhận và đánh giá hệ thống khi nghe thẩm định.
Trung âm là khái niệm rất quan trọng do hầu hết năng lượng của âm nhạc tập trung ở dải âm này, đặc biệt là hài âm của các loại nhạc cụ. Không chỉ có vậy, dải trung và dải treble thấp cũng nhạy cảm hơn với tai người so với dải bass và treble cao. Đôi tai người rất thính nhạy với âm thanh thuộc dải tần từ 800Hz đến 3kHz. Ngưỡng nghe dễ chịu nhất của tai người thường tập trung vào dải trung âm hơn là các điểm cực trên dải tần của thiết bị. Âm thanh mà tai người nghe thấy hàng ngày như: giọng nói, tiếng lá xào xạc, âm thanh của hầu hết loài động vật… đều thuộc dải trung âm.
Sự sai âm của dải trung có thể gây khó chịu cho người nghe. Những bộ loa có tiếng trung thiếu liền lạc, không liền mạch thường cho âm thanh không tự nhiên. Trung âm cũng là yếu tố quan trọng nhất khiến âm thanh của bộ loa trở nên hấp dẫn và ngược lại có thể tạo nên sự khó chịu dai dẳng cho người nghe. Một số cặp loa bị sai âm ở dải trung cho âm thanh giống tiếng nói được phát ra khi một người chụm tay bắc loa quanh miệng. Nhược điểm này khá phổ biến ở những đôi loa hàng chợ.
Những thuật ngữ dùng để chỉ màn trình diễn nghèo nàn và kém cỏi của trung âm có thể kể đến như: mỏng tiếng, sai âm, âm ngực, tiếng thùng, giọng mũi, ông ổng, dày tiếng… Trong đó, âm ngực là thuật ngữ mô tả sự sai âm của dải trung trầm khiến người nghe có cảm giác như thể ca sĩ trình diễn bài hát đó đang bị cảm lạnh. Giọng mũi là hiện tượng dư thừa năng lượng và tập trung thái quá vào quãng tần số nào đó khiến âm thanh phát ra giống như tiếng người nói khi kẹp mũi. Ông ổng có tính chất gần giống giọng mũi, song tập trung ở tần số cao hơn và xuất hiện trên dải tần rộng hơn.
Trong 15 năm trở lại đây, công nghệ chế tạo loa có những bước tiến đáng kể. Do đó, hiện tượng sai âm trầm trọng ở trung âm dường như đã được khắc phục tương đối trên hầu hết thiết bị. Tuy nhiên, hiện tượng này vẫn tồn tại ở những dòng loa rẻ tiền, nhưng đã được điều chỉnh tinh vi hơn khiến người nghe dễ chấp nhận hơn. Ngoài ra, còn có loại sai âm diễn ra ở dải trung trầm thỉnh thoảng xuất hiện ở những cặp loa hi-end đắt tiền do sự cộng hưởng và rung động của thùng. Thùng loa sẽ cộng hưởng và rung động ở một số tần số nhất định, tạo ra năng lượng sóng âm từ thùng khi tần số đạt đến ngưỡng nào đó ở một số nốt nhạc nhất định. Cộng hưởng thùng khiến âm thanh có vẻ tràn, vống về phía trước một cách thiếu kiểm soát. Lỗi này rất dễ nhận thấy khi nghe một đoạn solo piano: những đoạn chạy ngón nhanh, mạnh ở tay khiến các nốt nhạc dường như trỗi hẳn so với các nốt còn lại của bản nhạc. Vấn đề này phát sinh bởi hiện tượng tăng năng lượng đột ngột của một dải sóng âm. Bên cạnh đó, một số hòa âm còn được tạo ra do cộng hưởng thùng. Do đó, khi lựa chọn loa, người chơi nên dành nhiều thời gian để thẩm định âm trung của hệ thống xem có xảy ra hiện tượng sai âm hay không. Chỉ một vấn đề rất nhỏ hoặc thoảng qua khi nghe thẩm định cũng có thể trở thành vấn đề chính, triền miên, gây khó chịu cho người nghe khi sử dụng.
Một yếu tố quan trọng trong màn trình diễn của dải trung là cấu trúc bản nhạc được tái tạo như thế nào. Người nghe cảm nhận cấu trúc một cách cảm tính với âm thanh của bản nhạc. Nó mang tính kết cấu và liên tục nhiều hơn là âm thanh ở thời điểm nhất định. Một cặp loa có thể có cấu trúc âm trung cứng và giòn. Cấu trúc cứng thường lộ rõ qua những đoạn hợp xướng, giọng hát bè với âm thanh phô, gắt gỏng, thiếu chân thực. Vấn đề này càng trở nên tồi tệ khi người nghe thưởng thức ở âm lượng lớn. Với âm lượng nhỏ, hiếm khi phát hiện ra tình trạng này. Tiếng piano cũng bộc lộ rõ nét cấu trúc âm trung cứng. Với cặp loa có hiện tượng này, những nốt cao của piano nghe rất giòn và khó chịu. Khi trung âm không có những biểu hiện trên, có thể gọi đó là thứ cấu trúc âm êm, mượt, ngọt, dịu hoặc tinh tế.
Thuật ngữ sạn – từng đề cập ở kỳ trước khi mô tả âm treble có vấn đề – cũng được sử dụng khi mô tả khiếm khuyết của trung âm. Trên thực tế, sạn ở trung âm có thể gây khó chịu hơn cả sạn ở dải treble. Sạn tiếng ở trung âm có thể được cảm nhận khi âm thanh của nhạc cụ và giọng hát được tái tạo thiếu tinh tế, có độ phô.
Một vấn đề khác tồn tại ở dải trung âm là hiện tượng xé tiếng. Hiện tượng này là sự kết hợp của hệ thống loa bị mỏng tiếng (thiếu độ ấm), cứng tiếng và tràn tiếng. Tất cả hiện tượng trên đều xuất hiện và tập trung tại dải trung. Xé tiếng cũng có thể xuất hiện khi dải trung trầm của cặp loa bị mỏng tiếng khiến dải trung cao trội lên trên toàn bộ màn hòa âm. Sản phẩm audio luôn bị đánh giá rất thấp khi có hiện tượng xé tiếng.
Thông thường, khi thiết bị mắc quá nhiều lỗi ở trung âm cũng như âm treble thường bị gọi là phô tiếng. Khi chọn mua thiết bị, đặc biệt là loa, người chơi nên dành thời gian để tập trung thẩm định trung âm – dải âm có tần suất nghe được lớn nhất khi thưởng thức âm nhạc. Những chương trình dùng để thử thường là các đĩa ghi giọng hát, đặc biệt là giọng opera, giọng bè của dàn đồng ca, đĩa solo piano, kèn sax…
ÂM TRẦM – QUÝ HỒ TINH BẤT QUÝ HỒ ĐA
Âm trầm là nguyên nhân chính gây “phiền hà” trong quá trình tái tạo âm thanh của hệ thống hi-fi. Một suy nghĩ khá phổ biến là càng nhiều âm bass càng hay. Vì thế, nhiều hệ thống nghe nhạc đã được bổ trợ thêm subwoofer hoặc các núm chỉnh âm bass có thể làm căn phòng rung lên bần bật khiến người nghe tức ngực. Kết quả cuối cùng mà người nghe nhận được là tập hợp thanh âm lùng bùng, ầm ĩ và lẫn lộn. Đặc biệt, những âm thanh của bản ghi thuộc về dải dưới được tái tạo với chất lượng rất thấp
Trên thực tế, vấn đề mà người nghe nhạc quan tâm là âm nhạc được tái tạo như thế nào, chứ không phải là màn trình diễn rung trời, chuyển đất. Điều quan trọng với người yêu nhạc không phải là sự nhiều ít của âm bass, mà là chất lượng trình diễn. Người sành nghe không chỉ tìm kiếm sự hiện hữu vật chất của âm bass mà là chất âm huyền ảo với đầy đủ sắc thái của âm trầm. Chẳng hạn: những người hay nghe nhạc jazz và nhạc cổ điển thường tìm kiếm hệ thống tái tạo chính xác từng nốt búng, gảy dây trên đàn contra-bass. Người nghe cần cảm nhận được từng nốt trầm của bản nhạc, ngay cả khi nó được chơi với tốc độ lớn trong màn hòa âm phức tạp. Nếu nghe các nghệ sĩ contra-bass như Ray Brown, Stanley Clarke, John Patitucci, Dave La Rue, Dave Holland hay Eddie Gomez trình diễn, hẳn người nghe muốn được thưởng thức chính xác những gì họ chơi. Nếu âm bass của hệ thống dở tệ, thì tốt nhất hãy để chúng xuất hiện ít nhằm giảm thiểu sự khó chịu cho người nghe.
Việc tái tạo âm trầm chính xác là yêu cầu thiết yếu tạo nên sự thỏa mãn tổng thể quá trình tái tạo âm nhạc. Âm thanh tần số thấp tạo nên âm nền và giữ nhịp cho toàn bộ bản nhạc. Tuy nhiên, âm trầm lại là phần khó tái tạo nhất, dù đó là thiết bị nguồn, ampli, đặc biệt là cặp loa hay phòng nghe.
Có lẽ, vấn đề phổ biến nhất của âm trầm là tính chi tiết và sự chính xác của cao độ. Hai thuật ngữ trên mô tả khả năng tái hiện âm bass bóc tách thành từng nốt nhạc. Mỗi nốt ở cao độ và sắc thái khác nhau, chứ không chồng chéo, lẫn lộn. Âm trầm tái tạo phải chân thực và chính xác đến mức người nghe phải phân biệt được đâu là âm bass được tạo ra từ cộng hưởng giữa cây vĩ với bộ dây trên cây đàn contra-bass, đâu là âm bass được tạo ra trên cây bass điện Fender Percision. Khi được tái tạo chính xác, âm thanh ở tần số thấp có thể khiến người nghe phải ngạc nhiên bởi độ chi tiết của chúng.
Khi hệ thống tái tạo âm trầm thiếu chi tiết và không có sự phân biệt rành mạch về cao độ của từng nốt nhạc, toàn bộ dải trầm sẽ biến dạng thành âm nền lộn xộn. Người nghe có thể thấy được âm trầm, nhưng âm thanh đó thiếu nhạc tính và không có độ gắn kết với những dải âm còn lại trong bản nhạc. Hệ thống như vậy không thể tái tạo chính xác các nốt nhạc và đánh mất toàn bộ âm hình của hệ thống. Với một số thể loại âm nhạc mà âm trầm đóng vai trò quan trọng trong việc giữ nhịp như rock, nhạc blue điện tử và một số thể loại jazz, tiếng guitar bass và tiếng trống bass thường có độ trễ so với âm thanh của các nhạc cụ khác, khiến âm thanh tổng thể có phần lỗi nhịp. Hơn thế, tiếng trống bass thường bị tiếng guitar bass nhấn chìm làm giảm nhạc tính nói riêng và chất lượng trình diễn tổng thể của loại nhạc cụ này nói chung. Màn trình diễn bè trầm thuyết phục này còn trở nên tồi tệ hơn với hệ thống có âm bass lớn. Đây cũng là lỗi tiếng trầm hay gặp nhất do cấu hình ban nhạc gồm bass điện và trống bass rất phổ biến.
MỘT SỐ THUẬT NGỮ
Một số thuật ngữ được dùng phổ biến để mô tả âm trầm kém chất lượng như: đục, dính, vỡ tiếng, tràn (vống tiếng). kéo đuôi, thiếu lực, đần, lùng bùng và chậm. Ngược lại, thuật ngữ dùng để mô tả âm bass được tái tạo xuất sắc gồm: căng, nhanh, sạch, rõ ràng, nhẹ nhàng, chặt và chính xác.
“Liều lượng” của âm trầm trong màn trình diễn âm thanh rất quan trọng. Nếu nghe thấy quá nhiều âm bass, âm nhạc sẽ bị lấn lướt bởi bè trầm. Âm bass dư thừa luôn “nhắc” người nghe rằng: họ đang nghe âm thanh tái tạo chứ không phải âm thanh tự nhiên. Sự dư thừa âm bass được gọi là nặng tiếng (heavy). Trong trường hợp ngược lại, tức là quá ít tiếng bass, hệ thống được coi là mỏng tiếng. Một hệ thống mỏng tiếng sẽ làm giảm nhạc tính tổng thể và không thể hiện được tiếng trầm đầy uy lực của cây bass điện, độ hoành tráng và sâu thẳm của tiếng kick-drum, sự run rẩy, gầm gừ của cây vĩ trên đàn contra-bass… Tiếng bass mỏng sẽ khiến âm thanh của cây double bass nghe giống như tiếng cello, tiếng cello lại giống tiếng viola, tiếng trống bass mất đi sức nặng và tác động cần thiết lên bản nhạc trên góc độ tổng thể. Màn trình diễn bị mỏng tiếng thiếu độ ấm áp và cảm giác hiện hữu của nhạc cụ.
ĐỂ CÓ ÂM BASS ĐẸP
Có được âm trầm trung thực và tự nhiên là mong muốn của dân chơi audio. Đây cũng là “cảnh giới” khó vượt qua nhất khi set-up hệ thống nghe nhạc, ngay cả với các nhà sản xuất thiết bị audio hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, có thể khắc phục và hạn chế những vấn đề ngoài mong muốn liên quan đến bè trầm.
Trước tiên, muốn có được âm bass sâu đến đâu, được thể hiện ở nhạc cụ nào, người chơi cần lựa chọn đôi loa có dải tần thấp xuống được tương ứng. Tiếp đó, mỗi cặp loa cần được bố trí trong căn phòng có diện tích tương ứng theo nguyên tắc: loa càng lớn hoặc đường kính loa bass càng lớn thì diện tích phòng càng lớn.
Vị trí nào trong phòng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng âm bass. Nếu có điều kiện, cặp loa nên được đặt cách tường sau tối thiểu 1m và cách tường bên tối thiểu 0,5m. Các thiết bị đánh cặp cũng là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng của âm bass. Với những đôi loa kín không lỗ thông hơi cộng với độ nhạy và trở kháng thấp, người chơi cần nhắm đến những bộ ampli có công suất lớn với trở kháng xuống được thấp. Đặc biệt, bộ cấp nguồn phải có chất lượng rất cao để đảm bảo cung cấp đủ và bù năng lượng vào đúng thời điểm mà hệ thống yêu cầu. Ngoài ra, hệ thống phụ kiện như dây nguồn, lọc nguồn, dây dẫn và dây loa cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tái tạo âm bass tự nhiên và quyến rũ của bộ dàn.
Trước đây, những cặp loa đứng hoặc loa monitor cỡ lớn như: Altec, JBL, Coral… có đường kính loa bass từ 30cm đến cả mét là đích ngắm của những người coi trọng dải trầm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những cặp loa bass có đường kính lớn thường gặp vấn đề về tốc độ và khả năng phối hợp với phòng nghe bởi chúng làm dịch chuyển khối lượng khí lớn, rất dễ va đập với tường và các vật dụng trong phòng gây ra hiện tượng dôi âm. Hiện nay, với sự xuất hiện của những vật liệu mới trong quá trình chế tạo củ loa, thùng loa và vật dẫn, nhiều hãng loa đã thu nhỏ đáng kể đường kính loa bass, thùng loa, đồng thời nâng cao độ chi tiết, độ động của âm bass đáng kể như: Wilson Audio, Kharma, Marten…
Tuy nhiên, với dân chơi âm thanh lâu năm, chứng ấy chưa đủ. Trong số này, chúng tội tiếp tục giới thiệu đến độc giả thuật ngữ mô tả đặc điểm âm thanh của hệ thống một cách sâu sắc, cụ thể hơn, đó là âm hình.
Để có được hệ thống có âm hình chuẩn, người nghe không nhất thiết phải bỏ cả gia tài để đầu tư vào hệ thống audio mà còn phụ thuộc vào kinh nghiệm và khả năng phối ghép, bố trí thiết bị của người chơi.
Âm hình là thuật ngữ mô tả kích thước hiện hữu của không gian âm nhạc trước hệ thống âm thanh chất lượng tốt, người nghe có thể hình dung được nhạc cụ, ca sĩ phía trước xuất hiện trong không gian biểu diễn như của dàn nhạc trong phòng nghe. Khái niệm âm hình bao trùm thuật ngữ không gian, để chỉ cách nhạc cụ hiện diện trong không gian ba chiều của bản nhạc khi được tái tạo.
Trong các thành phần tái tạo âm thanh – âm nhạc, âm hình góp phần quan trọng mang lại cảm giác kỳ diệu và sống động với hệ thống stereo. Nhưng trên thực tế, cảm giác kỳ diệu ấy lại do những yếu tố khá đơn giản tạo nên: cặp loa trong hệ thống được đánh giá bởi hai dòng tín hiệu biến đổi về điện áp theo mỗi thời điểm trong không gian hai chiều. Chỉ với hai đại lượng biến thiên trên cũng có thể vẽ nên không gian âm thanh ba chiều có hình khối và kích thước rõ ràng. Với hệ thống audio có âm hình tốt, người nghe sẽ không cảm thấy mình đang nghe âm thanh được xếp hàng ngang, phẳng và hẹp về chiều sâu. Thay vào đó, người ta có thể cảm nhận rõ ràng vị trí của nhạc công violin số một phía bên trái gần vị trí nghe hơn. Âm thanh của bộ đồng xuất hiện phía sau dàn contra-bass phía bên phải. Tiếng lục lạc kêu lanh lảnh phía xa (nơi xa nhất trong dàn nhạc). Bản nhạc được cấu thành bởi các âm thanh tách biệt, hiện hữu trong không gian. Hơn nữa, người nghe còn được nghe âm hưởng của cây oboe phát ra từ vị trí của người chơi oboe, âm hưởng của violin phát ra từ vị trí của người chơi violin, những âm dội từ khan phòng bao quanh các nhạc cụ… Những giới hạn về không gian của phòng nghe dưồng như biến mất và thay thế bởi một phòng hòa nhạc mênh mông. Tất cả chỉ với hai đại lượng điện áp.
Âm hình được tạo nên trong não của người nghe nhờ độ biến thiên được mã hóa trên hai kênh âm thanh. Khi người nghe cảm nhận được vị trí phát âm của các nhạc cụ nằm phía sau sân khấu là lúc đôi tai hay bộ não đã tổng hợp được những thông tin trong quá trình xử lý những điểm khác biệt giữa hai dòng tín hiệu được truyền đến tai.
Các thiết bị audio thường có sự khác biệt rất lớn trong khả năng tái tạo đặc tính này của âm nhạc. Một số sản phẩm thường ép cho âm hình như dãn ra về hai bên và rút ngắn chiều sâu của nó. Một số khác lại có thể tái tạo đầy đủ và chính xác âm hình tương tự như không gian biểu diễn thật. Âm hình là yếu tố cốt lõi trong việc tái tạo âm nhạc thỏa mãn người nghe. Tuy nhiên, những thiết bị âm thanh chất lượng không tốt thường làm hỏn âm hình của hệ thống.
Một số thuật ngữ mô tã âm hình tồi như hẹp hoặc bó, âm nhạc như bị nén lại giữa hai loa mà chưa có khả năng phát triển và “bọc” lấy người nghe. Âm hình thiếu chiều sâu bị gọi là phẳng hoặc mỏng tiếng. Lý tưởng nhất là độ mở của âm hình nên nhỉnh hơn chiều sâu của nó. Song, âm hình bị bó lại phía sau cũng làm suy giảm không gian trình diễn của bản nhạc.
Ảo giác về chiều sâu của âm hình được tăng thêm bởi sự tái tạo những âm thanh cộng hưởng của nhạc cụ trong không gian biểu diễn thực. Quả thực, sự dội âm giảm dần sau kh đạt cao trào trước những khoảng lặng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành không gian âm nhạc. Tín hiệu lớn cũng giống như ánh đèn flash trong phòng tối. Ở khoảnh khắc đó, không gian âm nhạc được định vị rõ ràng, cho phép người nghe “nhìn” thấy các chiều kích thước và đặc tính của âm hình.
Để tạo nên ấn tượng về sự hiện hữu có thực của các lọai nhạc cụ trong không gian âm nhạc mà hệ thống trình diễn, bản thân âm cộng hưởng trong không gian biểu diễn thực cũng phải tách biệt so với không gian định vị của các nhạc cụ. Những thiết bị audio tầm tầm khó có khả năng tái tạo kiểu hồi âm trong không gian như vậy. Hiển nhiên, chứng kiến cho chiều sâu của sân khấu ngắn lại, khiến âm dội trùng vào âm hình của từng nhạc cụ, gây cảm giác lộn xộn cho người nghe.
Những thuật ngữ được dùng để mô tả âm hình tốt như: tập trung, chặt chẽ, rõ ràng. Những đặc tính của hình ảnh cũng được mô tả như: hình ảnh chặt chẽ, tập trung, định vị rõ ràng. Một âm hình tồi thường đi kèm những thuật ngư: lẫn, thiếu mạch lạc, lộn xộn, nén, thiếu tập trung…
Một yếu tố quan trọng khác thường được đề cập mỗi khi nhắc đến âm hình, đó là lớp lang. Thuật ngữ này để chỉ khả năng phân tách vị trí xuất hiện trước sau của từng nhạc cụ trong không gian âm thanh tổng thể. Càng xuất hiện nhiều lớp lang trong âm hình, hệ thống càng được đánh giá cao.
Để đánh giá âm hình của hệ thống, người nghe cần có những bản ghi chất lượng cao, tốt nhất là các bản thử máy có mục dành cho âm hình như CD thử máy của các hãng thu âm danh tiếng trên thế giới. Trên thực tế, để phối ghép nên hệ thống có âm hình chuẩn không hề đơn giản, nó vừa phụ thuộc vào khả năng trình diễn của từng thiết bị, vừa phụ thuộc vào sự tương thích lẫn nhau giữa các thiết bị, vào phòng nghe và cách kê đặt loa, lựa chọn vị trí ngồi nghe. Tuy nhiên, các yếu tố trên không buộc người nghe phải bỏ cả gia tài để đầu tư vào hệ thống audio mới có được âm hình chuẩn mà phụ thuộc vào kinh nghiệm và khả năng phối ghép, bố trí thiết bị của người chơi.
Leave a Reply